Hướng dẫn phân tích hình tượng sông Đà, lập dàn ý chi tiết và tham khảo một số bài văn hay phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Học may xin giới thiếu bài văn mẫu Phân tích hình tượng con sông đà hung bạo hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới.
Xem thêm bài viết: Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết
Hướng dẫn phân tích hình tượng con sông Đà
Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân).
1. Phân tích đề
– đòi hỏi đề bài: đo đạt hình tượng con sông Đà.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các câu, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu về con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
– công thức lập luận chính: phân tích.
2. Hệ thống luận điểm phân tích hình tượng sông Đà
– Luận điểm 1: Hình ảnh con sông Đà hung bạo ở thượng nguồn.
– Luận điểm 2: Hình ảnh sông Đà trữ tình ở hạ lưu.
Lập dàn ý chi tiết
Trước khi làm bài, các em có thể tham khảo dàn ý phân tích hình tượng sông Đà trong Người lái đò sông Đà để nắm được cách làm và các ý chính cần khai triển.
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm:
+ Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là tác giả yêu cái đẹp, suốt đời đi tìm cái đẹp, có cách điệu nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa.
+ “Người lái đò sông Đà” (1960) là một tác phẩm tiêu biểu cho cách điệu của Nguyễn Tuân.
– Giới thiệu hình tượng con sông Đà: Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân Lựa chọn.
2. Thân bài: hình tượng con sông Đà
* Hình ảnh con sông Đà hung bạo ở thượng nguồn
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông…”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới hiện diện trời”, chỗ “vách đá … Như một cái yết hầu”, “con hổ con nai có khả năng vọt qua sông”…
– “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy… cảm nhận thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện” -> hình ảnh ghen tị mới mẻ đến bất ngờ mô tả cái hẹp của lòng sông.
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
-> Sông Đà như đang náo động, gào thét muôn vạn âm thanh, cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt chúng ta.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô… Mượn cạp ngoài bờ vực” -> Con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như mong muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp chúng ta.
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều hiện trạng khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một nghìn con trâu… Cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.
-> Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, những hòn đá vô tri vô giác lại mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
+ Sự biến hóa linh động của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa)
- Trùng vi thạch trận thứ 1: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”
- Trùng vi thạch trận thứ 2: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn
- Trùng vi thạch trận thứ 3: Sông Đà bố trí bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
-> Gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của chúng ta.
* Hình ảnh sông Đà trữ tình ở hạ lưu
– Khi từ tàu bay nhìn xuống:
+ Sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình… Đốt nương xuân”
+ Sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
– Khi đi rừng lâu ngày đột ngột gặp lại con sông:
+ Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
+ Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
– Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
+ Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
+ Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
-> Sông Đà trữ tình như một cố nhân, một tình nhân.
=> Hình tượng sông Đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã bộc lộ cảm xúc của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc: một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy.
* Đặc sắc nghệ thuật
– Ngòi bút mô tả đậm chất tài hoa uyên bác
– Nghệ thuật so sánh, nhân hóa, …
– Lối ghen tị liên tưởng độc đáo
– Vận dụng tri thức của mọi lĩnh vực không giống nhau
– Ngôn ngữ giàu có, tinh tế mới mẻ, giàu cảm giác, đậm chất tạo hình, rất sắc sảo.
3. Kết bài
– Khái quát lại giá trị của hình tượng con sông Đà trong tác phẩm.
– Cảm nhận của em về hình tượng sông Đà.
Sơ đồ tư duy hình tượng con sông Đà
Hình tượng sông Đà trữ tình
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Phân tích vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của con sông Đà mẫu 1
Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, giá trị của ông so với toàn nhân loại là vô cùng mạnh mẽ, với cách miêu tả sáng tạo đầy nhiệt huyết, ông đã vẽ lên hình tượng con sông Đà với những nét tươi tắn và đầy sức sống, cảm xúc thật tự tin nhất cho con người, biết bao nhiêu thành quả trong tác phẩm đã đang được thể hiện mạnh mẽ và đậm nét nhất trong tâm hồn của người.
Dòng sông Đà được hiện lên trong sáng tác của tác phẩm với những chi tiết nổi bật và nổi bật nhất nhất đối với tâm hồn của chính tác giả, biết bao nhiêu cảm xúc và những nỗi nhớ mong nhất đã được biểu hiện một cách chung nhất, nó luôn ghi dấu trong tất cả tác phẩm với những cảm giác riêng. Hình tượng con sông Đà được biểu hiện một cách rõ nét và đậm đà hơn, qua những giá trị và xây dựng nên nhiều cảm xúc đối với con người, những thành quả đó để lại cho con người đôi niềm cảm giác và dòng tâm trạng đang biểu hiện mạnh mẽ trong chính tâm hồn của tác giả về chính nhân vật của mình.
Con sông Đà trong con mắt của Nguyễn Tuân vừa lung linh và cũng mang tính chất hung bạo nhất, với sự mô tả và tinh tế trong cách sáng tác, Nguyễn Tuân đã tạo nên những giá trị thật tự tin trong cách cảm nhận và miêu tả về hình tượng nhân vật. Những thành quả đó làm nên những nét mới mẻ và tươi vui nhất trong chính hình tượng và tính chất của nhân vật nói chung, con sông Đà được miêu tả với những hình tượng Điển hình, và nó da diết khuôn cùng đối với tất cả những sáng tác của tác giả, biết bao nhiêu cảm xúc và những dòng tâm lý đang được khai sáng và thể hiện một cách mạnh mẽ và da diết nhất về con người.
Hình tượng con sông Đà biểu hiện qua sự hung bạo, với những nét vách đá ngăn, và những dòng nước cuốn hung bạo, làm nên cho chúng ta những cảm nhận ấn tượng hơn, về tính cách và vẻ bề ngoài của nó. Trên sông những vách đá ngăn xảy ra rất nhiều, nó dựng nên cho lòng sông hẹp, những kí ức và huyền thoại, giữa những đôi bờ có những viên đá chồi lên, hươu có khả năng nhảy vọt từ bờ bên này đến bờ bên kia, tất cả những hình tượng đó nổi lên phía trên một bờ bến và sự thuần khiết của thiên nhiên cũng mang nhiều nét nguy hiểm và nó biểu hiện lên phía trên đấy bao nhiêu cảm xúc trong chính tâm hồn của tác giả, những cảm nhận của tác giả, về điều đấy đã làm đẹp đẽ và làm sâu sắc lên cho tâm hồn của nhà văn có cái nhìn mới mẻ và toàn diện hơn.
Trên bề mặt của dòng nước đấy, nó đang hiện hữu rất nhiều những cảm xúc mới mẻ, và da diết trong tâm hồn của mỗi con người, nó đang làm nên nhiều bài học sống có giá trị to lớn và tran hòa trong bao nhiêu cảm giác của chính tác giả về những điều đã qua, bao nhiêu niềm hân hoan, và vẻ đẹp của nó cũng được biểu hiện trong dòng tâm hồn biết bao nhiêu cảm xúc khó tả và da diết nhất. Với những mặt ghềnh hát long đã làm cho những lượn sóng cuồn cuộn tạo nên những cảm xúc không an toàn của chính những quan sát của tác giả về chính những dòng nước cuốn của cuộc đời. Trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã biểu hiện những ảnh chụp đó một cách chi tiết và mang đậm sắc màu nhất, những cung bậc cảm xúc riêng đang dần biểu hiện trong tâm hồn của tác giả, những nỗi nhớ mong và quan sát đậm nét nhất của chính tâm hồn của chúng ta, biết bao nhiêu thành quả sống và những cảm nhận sâu sắc cũng đang ẩn chứa bên trong tâm hồn của chính tác giả, về sự cảm nhận và những độc đáo thật tự tin nhất về hình ảnh : “ nước xô sóng, đá xô sóng, sóng xô, cuồn cuộn, luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ”… tất cả những biểu hiện đó đã thể hiện một cách chi tiết và độc đáo nhất trong tâm hồn của tác giả, ông đang phải gây dựng và vẽ lên những hình mẫu để lại nhiều cảm giác của con người, những cảm nhận riêng và ấn tượng nhất.
những ảnh chụp thể hiện sự thật tự tin và da diết nhất, những ấn tượng một cách sâu sắc và vô cùng đáng chú ý đang dần lấn áp lấy tinh thần cũng giống như những tình cảm riêng của chúng ta, biết bao nhiêu cảm giác khó bỏ xót, con người thấy thấu hiểu và được sự ghê rợ và hung bạo nhất của dòng nước sông Đà nó vô cùng mạnh mẽ, và những tiếng nước reo cứ cuồn cuộn lên, làm nên những tiếng động to lớn và có cái nhìn lạ lẫm của chúng ta đối với nó, những hình ảnh riêng và bao tiếng vang đã được biểu hiện mạnh mẽ và có thành quả nhất cho chính những miêu tả táo bạo của mình, những giá trị đó không chỉ để cho con người nhiều cảm xúc mà nó còn sâu lắng, đan xen lên trên dòng tâm trạng của con người những cảm giác riêng và mới mẻ nhất.
Những thác nước cuồn cuộn hút như những tấm bê tong đấy đã làm cho thấy được sức mạnh khổng lồ của dòng sông này, những điều đấy khiến cho chúng ta một cảm xúc và bao nhiêu nỗi nhớ da diết nhất, về hình ảnh dòng sông hung bạo. Những điều đấy đã làm cho chúng ta cảm nhận thấy hình ảnh của dòng sông Đà cũng da diết nhưng lại mang theo bao nhiêu cảm xúc của sự nguy hiểm, với nhiều vách đá, và nó được bầy trận như những ảnh chụp của ma trận trên sông, điều đấy gây ra sự nguy hiểm tột cùng.
tuy nhiên bên cạnh vẻ hung bạo, dòng sông cũng mang trong mình, những tình cảm của sự da diết, và bao nhiêu ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc đã được biểu hiện ở đây để có khả năng nói lên vẻ trữ tình, thư mộng và cũng vô cùng duyên dáng, với độ luyên thuyên sông được mô tả tuy nhiên mái tóc dài của người con gái, nó mềm dịu và thướt tha, bao nhiêu cảm giác đó đã đủ để nói lên những vẻ đẹp huyền bí, đang ẩn chứa trong dòng kí ức của con người, những dòng kí ức xa xôi và tạo dựng những đôi bờ kì ảo thật tự tin. Những chi tiết thể hiện sự trữ tình và màu sắc trong chính tác phẩm là những biểu hiện một cách ấn tượng và chi tiết về khung cảnh trong tác phẩm, những nỗi nhớ mong và sự thật về sự độc đáo mạnh mẽ trong cái nhìn của chính tác giả về dòng sông này, một dòng sông để lại nhiều cảm giác cho lòng người, sự mênh mang và sự huyền ảo đó đã để lại cho chúng ta nhiều những cảm nhận sâu sắc và có độc đáo thật tự tin nhất.
Vẻ đẹp của nó được biểu hiện qua những nét sinh động và tạo nên nhiều những độc đáo sâu đậm trong khoảng khắc, và cung bậc của chúng ta, biết bao nhiêu sự sống đang dần nở rộ và tạo nên được những miền thương nhớ và sự dạt dào tha thiết trong tâm hồn của chính tác giả.
Dòng sông biểu hiện hai trạng thái khác nhau, nhưng dưới con mắt tinh tường của tác giả, nó biểu hiện những tình cảm chân thành và da diết nhất về chúng ta, và cái nhìn sâu sắc về thiên nhiên và vạn vật ở địa điểm đây. Dòng sông hiện lên thật hùng vĩ và trữ tình. Với những nét Điển hình đấy, tác phẩm biểu hiện lên với biết bao nhiêu cảm giác da diết và tràn đầy lên bao nhiêu giá trị cho chính tác phẩm của mình, những chi tiết mang nhiều giá trị về ý nghĩa khi biểu trị giá trị sâu sắc cho chính tác phẩm này, những chi tiết đã mang những dòng cảm xúc sâu sắc và có ấn tượng mạnh mẽ về giá trị cho chính tác phẩm.
Bài văn của Nguyễn Tuân đã làm nên hình tượng nghệ thuật ấn tượng cho chính tác phẩm, thành quả đó làm nên sức sống của tất cả tác phẩm với hàng loạt những chi tiết đặc sắc và giàu có về ý nghĩa biểu tượng, để tạo ra cho cuộc sống này, biết bao nhiêu niềm yêu thương da diết và cảm giác ngập tràn trong những nỗi nhớ mong da diết.
Phân tích hình tượng con sông Đà – mẫu 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, ấn tượng, Nguyễn Tuân thích mô tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước. Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên quốc gia mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
“Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng không giống nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn tạo ra cuộc sống mới đã Đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng nhiều loại, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận địa điểm gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng vẫn chưa có ai như Nguyễn, để có khả năng hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã nên có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.
Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà ở những trạng thái đố lập nhau. trên hết, con sông hiện lên với một vẻ ngoài hung bạo. Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:“Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm nhận thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Sự so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có khả năng làm kinh động hồn trí chúng ta.
Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …” Với lối viết tài hoa, những câu văn diễn tả theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” -> Lối ghen tị độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
Âm thanh thác nước sông Đà:Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi đột ngột âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân mô tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp nhân hóa, người coi nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã sử dụng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác tuy nhiên qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận. Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”….Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn… Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà bố trí bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
Con sông Đà hiện lên hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. tuy nhiên cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút đất nước ta.
tuy nhiên sông Đà không những hiện lên trông hung bạo như vậy vì có lúc nó cũng dịu dàng mang trong mình vẻ đẹp trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …”
màu sắc dòng sông chỉnh sửa theo mùa “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.
Nguyễn Tuân thật say mê mô tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên quốc gia. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học đất nước ta.
phong cách Nguyễn Tuân ấn tượng và đa dạng. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” con người thấy cách điệu giá trị của ông thể hiện rõ đặc biệt là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy sắc màu, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích cảm nhận hình tượng con sông Đà mẫu 3
Pauxtopki từng tâm niệm “nhà văn chân chính là người dẫn đường tới xứ sở của cái đẹp”. Mỗi một trang viết của người nghệ sĩ chân chính phải là từ hoa với sắc biếc mây trời, ngạt ngào hương hoa, lấp lánh tình người trên tài hoa trí tuệ của con người. Có một nhà văn như thế đã đi vào hồn văn đất nước ta với trang hoa nổi tiếng “Người lái đò sông Đà”. Ấy là Nguyễn Tuân – người đã tạo ra thành công công trình mĩ thuật sông Đà và hình tượng chúng ta lao động mới. Bước vào xứ sở sông Đà văn ông, người đọc choáng ngợp, hãi hùng bởi sự hung bạo của Đà giang và say đắm ngất ngây trước nét trữ tình của nó qua hai đoạn văn sau: “Hùng vĩ của sông Đà… khuỷnh sông dưới” và “Tôi có hay tạt ngang sông Đà… bản đồ lai chữ”.
Nguyễn Đình Thi từng phán về cụ Nguyễn là nhà văn “suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”, tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ thuật với hai chữ viết hoa”. Mỗi trang viết của văn nhân hiện lên là mỗi một tờ hoa với cái biến ảo kì diệu của ngôn từ. Nguyễn trong bất cứ chủ đề nào đều lấy cái tài hoa làm khía cạnh khám phá con người và lấy tiêu chí thẩm mỹ đánh giá đối tượng mục tiêu.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho cách điệu này của Nguyễn Tuân. Tùy bút ra đời trong chuyến đi gian khổ mà hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền Tây Bắc xa xôi rộng lớn. Ở đó, văn nhân đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn người lao động nơi đây.
Hai đoạn trích trích ra từ tác phẩm hiện lên như tờ hoa về vẻ đẹp sông Đà. Trích văn đầu gợi ra những dòng cảm xúc đầu tiên về Đà giang nơi thượng nguồn hung bạo. Đoạn trích sau là niềm say mê, da diết của văn nhân trong phần sau của tác phẩm trước Đà giang trữ tình, thơ mộng. Mỗi một trích văn là một vẻ đẹp riêng sai biệt của công trình mỹ thuật sông Đà.
Là nhà văn của những cảm giác phi thường, những phong cảnh tuyệt mỹ, núi cao, rừng thông, sóng gió và thác ghềnh dữ dội, Nguyễn Tuân đã sử dụng những nét vẽ khoáng đạt để làm nên hình tượng sông Đà thật ấn tượng. Đập vào mắt người coi, Đà giang xảy ra ở đoạn trích thứ nhất với sự hung bạo mà độc đáo đầu tiên chính là hình ảnh vách đá thành sừng sững. Văn nhân khẳng định “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành”. Sự dữ dằn địa điểm Đà giang là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Mà vách thành sông Đà là cảnh sừng sững án ngữ trước mặt độc giả ngay lần dạo chơi đầu tiên.
Cụ Nguyễn đã vận dụng tinh tế “thành cao hào sâu” để mở ra ấn tượng địa điểm người đọc về vách thành kiên cố, vững chắc, thâm nghiêm. Vách đá hiện lên như thành cao, sông Đà với vực thảm như hào sâu hun hút. tất cả bước đầu dần kéo người đọc vào trùng vây liên tưởng choáng ngợp, hãi hùng. Chỉ hai chữ “vách thành” thôi văn nhân đã khắc tạc vào đó bao điều bí hiểm của thành quách cổ xưa sự rình rập của những đợt hỗn chiến, tấn công. Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà “đúng ngọ mới hiện diện trời”. Ánh nắng chói chang soi chiếu vạn vật tuy nhiên chỉ khi lên thiên đỉnh mới được le lói trên lòng sông Đà.
Cao, sâu thôi chưa đủ cụ Nguyễn còn mong muốn đưa người coi đến sự hung bạo tột cùng của cảnh đá bờ sông qua độ hẹp của sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hai bên bờ sông như đang xích lại gần nhau: “Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Độ hẹp lòng sông bị vách đá chèn ép tới mức nghẹt thở. Qua động từ “chẹt” người coi cảm tưởng như vách thành đã lấn át hết cả bờ sông ghê rợn, hãi hùng. Những chi tiết miêu tả tưởng chừng như bâng quơ của cụ Nguyễn nhưng lại mang lại độc đáo đậm đẹp hơn về độ hẹp địa điểm sông Đà. Chỉ hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của chúng ta lại là thước đo tài tình hơn bất cứ con số chuẩn xác nào. tất cả đã mang lại hình dung ban đầu về dòng sông, quy tụ tất cả tính từ đo đạc nguy hiểm nhất: cao thăm thẳm, sâu hun hút, hẹp đến không thở nổi.
Chính bởi lẽ này cảm giác của văn nhân khi chèo thuyền qua đây mới thật thú vị: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh, cảm nhận thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nguyễn Tuân đã tạo ra độc đáo về xúc giác phi lý ngày giữa mùa hè. nhưng suy nghĩ cùng dòng cảm giác này với Nguyễn, người ta mới thấy lạnh rợn tóc gáy, sởn gai ốc. mặc dù vậy cụ Nguyễn đâu giống người thường, nguy hiểm mà vẫn dậm tô cho kì được thêm cảm giác hãi hùng về độ cao rợn ngợp của vách đá sông Đà, qua từ ngữ không nắm rõ ràng “nào, mấy”, qua độ hẹp của hè phố và sự phụt tắt bất thình lình của đèn điện làm thót tim người quan sát khi đi vào khúc sông tối tăm này. Sông Đà hung bạo đã dần hiện ra trong trí óc người đọc bao hãi hùng, sửng sốt.
tính chất hung bạo của Đà giang còn là sự kết hợp của quần thể những thác đá, sóng nước. Máy quay của người nghệ sĩ đã chuyển từ vách thành qua cái dữ dội ở mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đội quân sóng, nước, gió trên sông Đà đang bắt tay nhau tạo trận địa uy hiếp con người. Nhịp văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn dập như đang mong muốn tạo cơn cuồng phong bão tố. Hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển nhau, sóng gió sông Đà cứ thế gối lên nhau, lần lượt uy hiếp chúng ta. Cụ Nguyễn đã đặt vào ba vế câu ba điệp từ “xô” để cộng hưởng cho những đợt đánh liên hoàn dữ dội của sóng nước thác đá. Chúng như con thủy quái đầm lầy đang cuồng nộ, bẳn tính, gắt gỏng vô cớ giận dỗi với con người. Đà giang “gùn ghè” đe dọa chúng ta như thói quen thường ngày của nó. Nó sẵn sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất cứ tay lái khinh suất nào. Một khía cạnh hung bạo nữa của con thủy quái hiện ra đe dọa, uy hiếp chúng ta.
Dưới bàn tay ma thuật của văn sĩ, sông Đà hung bạo bắt đầu nghênh chiến với người đọc qua đội quân hút nước dữ dằn. Hút nước hiện ra trước mặt bạn đọc qua hình ảnh “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, qua âm thanh ghê rợn của “cửa cống cái bị sặc” với sự kết hợp đến đáng sợ giữa hình ảnh, âm thanh “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Đứng trước nhà ảo thuật ngôn từ, người ta dễ thấy cái cảm giác bất lực khi khó có khả năng tìm thêm tính từ nào cho sự hung bạo ấy. Cái cảm xúc hãi hùng của người đang coi phim hành động chỉ muốn nhắm tịt hai mắt vì kinh lo lắng. thế mà nhà văn tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân vẫn lạnh lùng pha kích thích chĩa ống kính về cái “lừ lừ” bí ẩn, cái “ặc ặc” ghê rợn của sông Đà.
Đi thuyền qua quãng sông này, Nguyễn đưa người coi cùng vào chơi trò chơi mạo hiểm qua hình dung về “ô tô sang số ấn ga…vút qua quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. chưa bao giờ người coi lại tưởng tượng thấy cảm xúc đáng sợ của đường sông cụ thể như vậy qua cái hình dung về đường bộ. Chèo thuyền men gần hút nước này chắc chỉ người thích phiêu lưu như Nguyễn hay dũng cảm như ông lái đò mới dám thử. Ghê sợ là vậy mà cụ Nguyễn vẫn còn đủ sức hình dung: bè gỗ rừng bị lôi tuột xuống, thuyền bị dìm cho tan xác trên sông Đà. Chiều kích trí tưởng tượng của nhà văn mở rộng hết cỡ. Ông muốn cùng người coi đi tới cái hung bạo đến tột cùng của Đà.
Qua hình ảnh con sông hung bạo, cảnh trí hùng vĩ, mênh mông của quê hương hiện ra với bao niềm tự hào, phấn khích. “Xứ sở của cái đẹp” Đà giang sẽ không hợp lý nếu thiếu đi nét trữ tình, thơ mộng của chất vàng tây Bắc. Ở đoạn trích sau, nhà văn đã say sưa, ham thích trước vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà. Ông quả là một nhà văn có tâm khi dụng công bay tạt qua sông Đà mấy lần để có cái nhìn tổng quan nhất về dáng vẻ sông Đà. Từ trên cao nhìn xuống, Nguyễn Tuân hứng thú phát hiện thấy nét trữ tình trước tiên của Đà qua hình ảnh “cái dây thừng ngoằn ngoèo”. Sông Đà như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn như hình con long trên núi. Dòng sông bỗng mềm đi, uyển chuyển, nhẹ nhàng uốn lượn qua những dãy núi, triền đê. Vẻ đẹp ấy của dòng sông làm nhà văn dường như không tin vào mắt mình.
Đến đây toàn bộ sự dữ dằn của con thủy quái cuồng nộ với ông đò, con sông dữ dội của câu đồng dao dần không còn, trả về vẻ duyên dáng cho sông Đà ở trung lưu. đáng chú ý dáng điệu trữ tình của Đà giang còn gây ngây ngất lòng người qua hình ảnh “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt mương xuân”. Không phải vô cớ “người thợ kim hoàn của chữ” lại đặt vào câu văn hai tính từ “tuôn dài”. Với điệp từ này sự miên man bất tận của dòng sông trải ra vô tận dọc khắp chiều dài biên giới phía Tây của Tổ quốc. Sự mềm mại của dòng sông được ví như mái tóc linh hoạt, nữ tính của người con gái. Dòng sông mang nét đẹp yêu kiều, duyên dáng làm đắm say bao hồn người khi nhìn nó ở góc độ này.
điểm đặc biệt trong cách mô tả trên chính là vẻ đẹp đậm chất thơ mà nhà văn phú cho sông Đà. Ông thu thập áng thơ đặt vào áng tóc. Phải chăng sông Đà mộng mơ đến độ khiến cụ Nguyễn muốn đề thơ vào sông nước. Sông Đà đang bung nở sức xuân trên nền trắng của hoa ban và sắc đỏ của hoa gạo. Nhà văn đã dùng cọ mẫu vẽ lên mấy nét khiến bức họa hiện lên xao động lòng người. Sông Đà ở góc dộ này vừa nhuốm màu thơ, dậm tô màu họa, nữ tính e ấp như cô gái đáng yêu. Bởi nó được phủ lên tấm khăn voan mỏng của làn khói làm thi vị, hư ảo đến lạ lùng. Qua dáng vẻ ấy, Đà của Nguyễn hiện lên như người con gái Tây Bắc nữ tính, dịu dàng, e ấp, kín đáo và đầy bí ẩn.
Bức họa về sông Đà trữ tình còn được tô điểm bởi màu nước địa điểm đây. thế giới văn chương luôn tâm niệm nhà văn hay là người phải hội tụ đủ cả tâm và tài. Nhà văn phải ngụp lặn vào đời sống để dùng cái tâm cảm thấu cuộc đời và lấy tài phú lên cảnh vật. Để miêu tả được hai mùa nước đẹp nhất trên sông Đà, Nguyễn Tuân chắc hẳn phải dụng công nghiên cứu kĩ lưỡng lắm. Ông say sưa đắm chìm trong sắc xanh của làn nước mùa xuân. Ông trân trọng gọi Đây là “dòng xanh ngọc bích” trong xanh, sang trọng và êm nhẹ.
nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương niềm tự hào khi thuộc về một thành phố độc nhất thì Nguyễn Tuân lại dành niềm thiên vị cho sông Đà khi so sánh dòng ngọc bích trong trẻo ấy với màu xanh canh hến lờ đục của sông Gâm, sông Lô. đó là biểu hiện của niềm yêu, tâm hồn thích thị tài, khoe uyên bác. Sự uyên bác còn được văn nhân đặc tả màu nước sông Đà về mùa thu “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bần đi vì rượu bữa bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. đấy là dòng phù sa nặng nề đang chảy. Phù sa ăm ắp sông Đà sẽ đổ đi khắp ruộng lúc, bờ dâu, bãi mía…để góp một phần tô điểm cho sự trù phú của Tổ quốc.
Ở hình ảnh con sông trữ tình, người ta còn thấy được niềm gửi gắm của một tấm lòng tha thiết với quê hương. Nhà văn khẳng định: “nước sông Đà không bao giờ đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu”. Luận điệu bác bỏ như một lời khẳng định, lời tố cáo luận điệu xảo trá của bọn thực dân. Ông muốn trả lại vẻ trữ tình vốn có cho sông Đà bằng sự yêu mến của một niềm yêu: yêu thiên nhiên, tình yêu nước. Hình tượng sông Đà trữ tình ở đoạn này đã làm ngây ngất đắm say bao trái tim bạn đọc.
Qua hai đoạn trích trên, người nghệ sĩ đích thực Nguyễn Tuân đã góp vào rất đầy đủ bộ mặt của sông Đà hung bạo và trữ tình. có được điều ấy không thể không đề cập đến tài năng của văn nhân qua việc tạo ra hình thức nghệ thuật ấn tượng. Việc phóng túng trong cách sử dụng thể tùy bút để ông thoải mái, tự do bày tỏ niềm say mê với dòng sông Đà, thỏa trí sáng tạo trên nền hiện thực. Nhà văn khám phá con sông từ phương diện thẩm mĩ khiến nó hiện lên như một công trình mĩ thuật kì vĩ. Việc văn nhân vận dụng tài tình kiến thức của điện ảnh hội họa vào thơ văn cùng với cách tích hợp từ vô cùng độc đáo: những câu văn ngắn, nhịp nhanh, động từ mạnh khi mô tả sông Đà hung bạo, câu văn dài, liền mạch cùng thanh huyền êm ả khi mô tả sông Đà trữ tình; Kết hợp với phép tu từ điệp, nhân hóa, so sánh. toàn bộ sự biến ảo này của chuyên viên tiếng Việt đã góp một phần tô đậm hình tượng sông Đà trong thế đối lập hung bạo và trữ tình.
Hai trích văn trên đã góp một phần đầy đủ bộ mặt của Đà giang. Con sông tiêu biểu cho phong cách tài hoa của Nguyễn Tuân. Sông Đà chính là hình ảnh của thiên nhiên quốc gia giàu đẹp. Nó không chỉ chở niềm tự hào, say mê mà còn chất chứa tấm lòng yêu nước tha thiết của văn nhân cùng lời gửi gắm của ông vào tiềm năng phát triển thủy điện, du lịch sông Đà. Đọc Người lái đò sông Đà người ta thấy yêu và say đắm hơn với cảnh đẹp của quê hương, đất nước. cùng lúc đó người đọc càng trân trọng hơn sự thay đổi gắn văn học vào vẻ đẹp đời thường bình dị trong văn chương của Nguyễn Tuân.
Gấp trang sách của Nguyễn Tuân, người coi vẫn hiện rõ trong cảm giác cái hãi hùng, rùng rợn trước con thủy quái sông Đà, nhưng lại ngây ngất trước cái đáng yêu của cô gái sông Đà. Đà giang sẽ là cái nền để cùng tôn cao thêm hình ảnh con người. Sông Đà với bao ấn tượng đã bước vào văn chương cụ Nguyễn, cứ thế len lỏi vào tâm trí người coi không bao giờ bỏ xót.
Phân tích hình tượng con sông Đà mẫu 4
“Ôi những dòng sông bắt nước tại đâu
Mà khi về đến quốc gia mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”…
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Tổ quốc ta có trăm núi ngàn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi tả lên trong lòng ta tình yêu sông núi. trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
“Chúng thủy giai động tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu”.
Sông Đà tại thời điểm này đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền quốc gia thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm “Sông Đà” khen ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, chúng ta Tây Bắc có bao tính chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút “Người đò Sông Đà” là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là một “tờ hoa”, đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp cách điệu nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa,độc đáo.Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với hầu hết tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng- Nguyễn Tuân xem Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đó, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiêu ghềnh: “Đường Mường bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm – du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thúy tận cho thấy Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho thấy tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,… Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách…, như là van xin…., như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông dùng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những ghen tị, liên tưởng rất “đắt” để mô tả, tái hiện và cảm nhận phẩm chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận”, dày đặc la liệt “boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt có bộ mặt “xanh lè” đáng lo lắng, chuẩn bị và sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ải nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm xúc mạnh.
Đọc tuỳ bút “Người lái đô Sông Đà”, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bác này. Dáng hình sống Đà mểm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy mộng mơ. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng tờ”; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng tờ đến vậy mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song cần thiết một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông sử dụng bút pháp chấm phá “điểm nhãn” để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quảy vọt len mặt sông trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà Đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” .Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm “lững lờ như những hồn đá thác xa xôi”, hoặc “con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”,v.v…
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút “Sông Đà” là loại “tùy bút – kí bút”. Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc,… Chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ khen ngợi vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chung thủy giai đông tẩu – Đà Giang độc bắc lưu”. cũng giống như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lý Bạch hơn 1.300 năm về trước:
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật thú vị:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Qua đấy, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ.
đề cập về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không thể quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích – bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:
“Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ thu thập Thao Đà dải thượng lưu”
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. “Người lái đò Sông Đà” đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ nước ta.
Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” chắc cảm nhận được cái sắc sảo, thanh lịch, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu,.., của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền vãn hóa nước ta được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.
Đọc tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “đề thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, đã mô tả, nhận điện con người – ông lái đò – ở khía cạnh tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thòi gian. nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điêu, bằng toàn bộ cảm xúc tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm xúc mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, thông minh. Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghénh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta yêu thêm chúng ta đất nước ta cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.